ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN – Chương 7

Đập tan cuộc phản kích

Từ trưa ngày 11 đến rạng sáng ngày 14 tháng 3, không khí Sở chỉ huy Mặt trận của ta nhộn nhịp, căng thẳng, nhưng đầy phấn khởi. Tin tức từ các đơn vị của ta và tin trinh sát kỹ thuật liên tục dồn dập báo về. Việc chạy đua với địch thật sự đã bắt đầu khi tiếng súng vừa dứt trong thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếng súng tiến công của quân ta lan nhanh trên đường số 14, ở Buôn Hồ, Buôn Đôn, Đạt Lý, căn cứ Trung đoàn 53, hậu cứ Trung đoàn 45 của địch, v.v. Binh khí kỹ thuật của ta lúc này đã toả ra, hướng về các mục tiêu chung quanh Buôn Ma Thuột.

Sư đoàn 320 phái một lực lượng theo đường số 14 đánh xuống phía nam đường, giải phóng quận lỵ Buôn Hồ, đuổi địch chạy về Đạt Lý và một lực lượng khác đánh lên phía bắc đến giáp cầu I-a Leo, làm chủ vững chắc đường số 14 trên một đoạn dài 80km. Sư đoàn 10 được điều động phát triển về hướng đông Buôn Ma Thuột, triển khai một thế đứng tốt, sẵn sàng đón đánh viện binh địch đến giải toả Buôn Ma Thuột. Trưa ngày 12-3 ta đã hình thành thế bao vây chi khu và quận lỵ Phước An. Tên chỉ huy chi khu nguỵ bỏ chạy với bọn cảnh sát.

Các đơn vị của Sư đoàn 316 và Trung đoàn 95 B đã quét sạch địch trong các hầm ngầm ở thị xã, giải phóng anh chị em của ta bị địch giam trong nhà lao Buôn Ma Thuột, tiến sang chiếm khu vực trường huấn luyện của Sư đoàn 23, lùng bắt một số tàn binh dạt về các rừng cao su ở phía tây thị xã và gọi hàng các toán dân vệ và các trung đội quân địa phương của địch. Bộ đội đặc công bám chắc sân bay Hoà Bình, đánh lui các đơn vị từ căn cứ Trung đoàn 53 sang hòng chiếm lại sân bay. Các cụm pháo tầm xa của ta đã đo lại các phần tử bắn ở phía đông thị xã và quanh sân bay Hoà Bình. Các cụm cao xạ dồn đội hình về phía đông thị xã sẵn sàng đánh quân đổ bộ đường không của địch.

Các phân đội xe tăng, xe bọc thép của ta đã vào các vị trí tập kết và chuẩn bị các đường xuất kích mới dọc theo trục đường Buôn Ma Thuột – Lạc Thiện – Phước An.

Trong thị xã, sau khi im tiếng súng, nhân dân tích cực đào hầm phòng không, hoặc sơ tán ra chung quanh thị xã.

Các đội quân cảnh được thành lập, hướng dẫn nhân dân sơ tán về phía tây thị xã và bịt chặt các ngả đường chạy về phía đông, bắt giữ những tên phản động ngoan cố định chạy trốn. Ta cấp phát gạo, muối cho những gia đình nghèo trước khi sơ tán. Các lưới lửa cao xạ của ta trùm lên thị xã, đánh trả quyết liệt máy bay địch đến ném bom hoặc trinh sát.

Địch trong phạm vi tỉnh Đắk Lắk như rắn mất đầu. Ở Buôn Đôn, đại bộ phận lính nguỵ ra hàng, một số bỏ vị trí chạy trốn. Tên trung tá nguỵ, chỉ huy hậu cứ Trung đoàn 45 nguỵ phải chỉ huy cả quân của hắn và tàn quân của Trung đoàn 53. Tên chỉ huy Trung đoàn 53 nguỵ đánh điện cầu cứu cấp trên, đề nghị ném bom cháy vào đội hình của ta thì chúng mới chạy thoát.

Trên đường phát triển ra chung quanh Buôn Ma Thuột, quân ta bắt gạp các tốp địch ra hàng, thu xe cộ và nhiều khẩu pháo 105 milimét của địch. rừng tốp máy bay A.37 lại đến ném bom Buôn Ma Thuột và máy bay trinh sát địch tăng cường hoạt động trên vùng trời Phước An và sân bay Hoà Bình.

Tại Sở chỉ huy của ta, bản đồ công tác được ghi chi chít những vòng tròn với hai gạch chéo màu đỏ là ký hiệu quân ta tiêu diệt và làm chủ các mục tiêu, những mũi tên màu đỏ chỉ đường tiến quân của các đơn vị, các mũi tên màu xanh chỉ đường rút chạy của địch trong các khu rừng lân cận.

Máy điện thoại reo vang, giục giã. Người nghe tuy rất tập trung tư tưởng vẫn không nén được những tiếng cười vui khi nhận tin chiến thắng từ các nơi báo về. Các đồng chí phục vụ trong Sở chỉ huy, lặng lẽ làm công việc của mình, chân bước nhẹ nhàng và trìu mến đưa cho các cán bộ tham mưu đang nghe điện thoại những điếu thuốc lá từ hậu phương gửi vào.

Mới đầu mùa xuân, rừng khoọc Tây Nguyên chưa kịp thay lá, nắng trưa càng oi bức. Tiếng côn trùng đủ loại, tiếng chim công tố hộ bên cạnh nhà hoà lẫn tiếng pháo nổ vọng từ xa, tiếng vo vo của máy bay trinh sát OV-10 lượn tìm mục tiêu và tiếng “Alô? ZA 75 đây!” của Sở chỉ huy.

Trưa ngày 12 tháng 3, giữa lúc khẩn trương nhất của trận đánh quân địch phản kích, các đường dây điện thoại của Sở chỉ huy đứt đồng loạt. Không có tiếng bom, không có tiếng máy bay. Gọi mãi đầu dây bên kia vẫn không có tiếng trả lời. Các đồng chí chỉ huy đều ngừng việc lại, lắc đầu nhìn nhau im lặng. Đồng chí cán bộ thông tin bật dậy vụt chạy ra khỏi nhà hầm để tìm nguyên nhân. Cùng lúc có tiếng rống của một đàn voi, ngày càng to dần, cách Sở chỉ huy khoảng 300 mét.

Thì ra đàn voi kinh động bom đạn ở chiến trường đã “di tản” băng qua Sở chỉ huy của ta, đi về phía biên giới Việt Nam – Campuchia. Lập tức, đơn vị bảo vệ Sở chỉ huy được phái đi cản đàn voi rừng “thiếu ý thức”. Nhưng có lệnh không được nổ súng bắn chết voi, giữ kỷ luật bảo vệ thú rừng quý, không trêu tức chúng để chúng không quần nát Sở chỉ huy. Tất cả mọi người được lệnh nếu cần thì tụt xuống hầm kèo chữ A để tránh.

May quá, đàn voi rừng đã vượt qua bên cạnh Sở chỉ huy, quân ta thì “án binh bất động”. Chỉ khổ cho mấy đồng chí thông tin đi nối dây điện thoại, không những dây bị đứt mà còn mất từng đoạn dài do voi quấn lôi đi theo.

Trong những đêm 12 và 13, chúng tôi thay phiên nhau ngủ, các đồng chí cán bộ trực ban thay phiên nhau theo dõi tình hình. Rừng đêm có lúc thật yên tĩnh nhưng không thể nào ngủ được lâu và yên giấc, trằn trọc suy nghĩ từ vấn đề này sang vấn đề khác cho đến lúc thiếp đi chốc lát, rồi tiếng “A-lô” điện thoại ở hầm trực ban vọng đến, tiếng nai giác bên suối, tiếng chân đi vội của đồng chí trực ban đến báo cáo.

Ngày 12 tháng 3, một bức điện hoả tốc từ Hà Nội gửi vào Các đồng chí cơ yếu mã dịch được đoạn nào thì đưa ngay cho tôi xem đoạn ấy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp truyền đạt cho tôi ý kiến của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương sau khi đã đọc điện báo cáo của tôi.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương báo cho biết các chiến trường khác bắt đầu phối hợp tốt và dặn chúng tôi kiểm tra, đôn đốc việc tiêu diệt các đơn vị địch đến phản kích, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch trong khu vực Buôn Ma Thuột và phụ cận, nhanh chóng bao vây Phú Bổn.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương dự kiến là nếu địch bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực lớn, thị xã Buôn Ma Thuột và nhiều quận lỵ khác bị mất, đường số 19 bị cắt thì lực lượng địch còn lại ở Tây Nguyên sẽ cụm lại ở Pleiku và cũng có thể chúng buộc phải rút lui chiến lược, bỏ Tây Nguyên. Do đó, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cần hình thành ngay việc bao vây Pleiku, triệt cả đường bộ lẫn đường không của địch, chuẩn bị tốt việc tiêu diệt địch trong cả hai tình huống.

Như vậy là Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã sớm dự kiến một cuộc rút lui chiến lược của địch ở Tây Nguyên. Và thế chiến dịch đã cài trước ngày nổ súng đánh Buôn Ma Thuột cũng đã tính đến việc tăng cường lên cứu Tây Nguyên cũng như không cho địch rút chạy khỏi Tây Nguyền một cách dễ dàng.

Từng đợt máy bay lên thẳng của địch tiếp tục đổ quân xuống vùng Phước An và phía tây sân bay Hoà Bình.

Trung đoàn 44, một bộ phận của Trung đoàn 45 cộng với tàn quân của Trung đoàn 53 chạy về đây đã trải qua những giờ phút hãi hùng nhất đối với chúng.

Chưa xuống đến đất, chúng đã run sợ trước làn đạn các loại súng cao xạ bắn lên và nhìn thấy đồng bọn bị bắn rơi chung quanh. Đặt chân xuống đất chưa kịp chấn chỉnh đội hình chúng đã chạy tán loạn để tránh các loạt đạn pháo của ta giội xuống và súng bắn thẳng của bộ binh ta.

Chúng khiếp sợ nhất khi trông thấy xe tăng, xe bọc thép của ta xuất kích xông vào đội hình của chúng.

Các đơn vị đổ bộ đường không của địch lần lượt bị diệt, số còn lại chạy tan tác, lẫn lộn vào nhau và dắt díu nhau lùi dần về phía đường số 21. Trên đường rút chạy, quân địch kéo theo bọn nguỵ quân, nguỵ quyền địa phương và biệt động quân, để lại nhiều xe, pháo, súng đạn.

Các đơn vị của ta chuyển sang truy kích địch bằng xe cơ giới cứ theo đường cái vượt lên trước đội hình rút chạy của chúng và lập các chốt chặn đón dọc đường để bắt bọn tàn quân. Cán bộ tham mưu quân báo và tác chiến lúc này cũng gặp khó khăn trong việc ghi lên bản đồ các phiên hiệu của địch vì, trên chiến trường đội hình địch rút lộn xộn, trong không trung điện đài của địch phát loạn xạ; không phân biệt được đơn vị nào kêu cứu, kẻ nào đến cứu, mầy bay địch từng tốp bay lượn trên cao không yểm trợ được cho quân địch dưới đất.

Sáng sớm ngày 14 tháng 3, qua báo cáo tổng hợp của đồng chí trực ban trong đêm, chúng tôi kết luận: chủ lực của Sư đoàn 23 nguỵ gồm Trung đoàn 44, Trung đoàn 45 ở phía đông Buôn Ma Thuột đã bị tiêu diệt qua hai ngày tác chiến. Số tàn quân của Trung đoàn 58 và Liên đoàn biệt động quân số 21 cũng chịu chung số phận. Cuộc phản kích của Quân đoàn 2 địch ở Tây Nguyên đã bị đập tan. Địch lại bị lún sâu vào thế bị động và thất bại thêm một bước.

Ta tiếp tục phát triển theo kế hoạch đã có và được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đồng ý. Ngày 14-3, sau khi trao đổi ý kiến với các đồng chí tham mưu trong Sở chỉ huy, tôi gửi đi bức điện báo cáo với Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương là đã nhận đủ các điện, rất phấn khởi về ý định và chủ trương phát triển chiến dịch của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương. Chúng tôi hứa sẽ nỗ lực tổ chức thực hiện tốt để đạt yêu cầu của trên là rút ngắn thời gian giành thắng lợi vượt mức kế hoạch đề ra, hoàn thành kế hoạch của Tây Nguyên dự kiến năm 1976 trong vòng vài ba tháng của năm 1975.

Chúng tôi báo cáo về những ngày đầu của chiến dịch để Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nắm thêm được tình hình, nêu lên việc điều khiển địch theo ý định của ta, làm cho chúng nhận định sai về hướng tiến công chủ yếu rồi tiếp tục củng cố nhận định sai đó của chúng cho đến lúc ta tiến công vào hướng chủ yếu để giữ được bất ngờ chiến dịch.

Từ ngày 1-3 đến ngày 9-3-1975, trước khi tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta triển khai thế chiến dịch, thu hút sự chú ý của địch về hướng Kon Tum, Pleiku, cắt các đường, cô lập mục tiêu chủ yếu nên lúc ta sắp nổ súng đánh vào Buôn Ma Thuột, địch mới biết. Chúng báo động và muốn tăng cường lực lượng nhưng không kịp nữa, lực lượng đã bị căng giữ ở các nơi khác.

Cách đánh vào các mục tiêu chủ yếu của thị xã Buôn Ma Thuột là cách đánh phối hợp hiệp đồng binh chủng trên bốn cánh kết hợp với các đơn vị tinh nhuệ và các tiểu đoàn bộ binh bí mật tiến vào bố trí sẵn, bỏ qua các đồn bốt ngoại vi Buôn Ma Thuột, dùng binh lực cơ giới hoá theo các trục đường lớn với tốc độ cao đánh thẳng vào trong thị xã nhằm đập vỡ ngay hai đầu não chỉ huy của địch là Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 và Sở chỉ huy tiểu khu.

Từ hướng nam, ta dùng hai tiểu đoàn bộ binh bí mật bố trí sẵn, một đánh vào Sư đoàn bộ Sư đoàn 23, một đánh vào Sở chỉ huy tiểu khu cùng một lúc với hai cánh quân khác từ hướng tây và đông bắc, mỗi cánh có bộ binh, xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ đi cùng thọc vào trung tâm thị xã. Ngoàị ra còn tổ chức một mũi nhọn gồm một tiểu đoàn bộ binh và một đại đội xe tăng, từ hướng tây nam cùng một lúc đánh vào mục tiêu chủ yếu. Ta dùng đại đội bộ binh ngồi xe bọc thép đi cùng với đại đội xe tăng, còn hai đại đội bộ binh khác thì đã bí mật đưa vào bố trí sẵn cách mục tiêu chủ yếu là Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 khoảng 2km, đợi xe tăng tiến vào hợp thành một mũi nhọn toàn tiểu đoàn bộ binh có xe tăng, thiết giáp đánh ngay vào mục tiêu chủ yếu đúng lúc pháo binh ta vừa chuyển làn. Địch không kịp trở tay và không thể chỉ huy các lực lượng khác.

Trận Buôn Ma Thuột thắng lợi nhanh thể hiện một lối đánh táo bạo, bất ngờ. Lối đánh này đòi hỏi việc tổ chức hợp đồng phải thật tốt, vì rất phức tạp. Ta đã cố gắng thực hiện được. Nhưng khi đánh địch tan vỡ rồi thì ở một số đơn vị và từng lúc bộc lộ những mặt yếu mà ta cần nhanh chóng khắc phục. Từ nhận thức đến cung cách làm ăn đều chưa tiến kịp trong điều kiện và yêu cầu mới vẫn còn vướng mắc kiểu cũ, họp hành nhiều và kéo dài. Người đứng quyết đoán và tổ chức hành động mau lẹ chưa nổi hật lên. Có tình trạng không nắm chắc bộ đội, có máy vô tuyến điện thoại mà không dùng, cứ lách cách kéo đường dây điện thoại; có xe lấy được của địch, có tù binh biết lái xe cũng không dám dùng để cơ động bộ đội mà vẫn cứ lẽo dẽo đi bộ. Địch đang rối loạn, tan rã không như địch đã có tổ chức, chuẩn bị sẵn phòng ngự đợi ta, nhưng khi đánh vẫn đòi đủ bài bản, phải chuẩn bị từ đêm đợi sáng mới đánh. Không quân địch đánh có hạn và bay cao, thả bom toạ độ thiếu chính xác nhưng vẫn không cho bộ đội vận động ban ngày, để chờ đợi, chậm trễ, bỏ phí thời giờ.

Những vấn đề này phải nhiều lần nhắc đi nhắc lại và đang được khắc phục.

Vấn đề vỡ ra to quá, nhanh quá, thời cơ để giành nhiều thắng lợi mới xuất hiện ngày càng nhiều. Một số cấp uỷ địa phương thì hiện nay còn lúng túng trước toàn bộ công tác phải làm của mình. Nếp suy nghĩ, tổ chức, tác phong cũ mâu thuẫn với yêu cầu của sự phát triển tình hình mới lá làm ăn với quy mô lớn hơn và nhanh chóng hơn.

Đây không phải là tình hình chỉ có ở Tây Nguyên mà còn có thể có ở các chiến trường khác. Nó xuất phát từ việc đánh giá địch, từ nếp suy nghĩ và cung cách làm ăn chưa phù hợp với điều kiện mới. Lúc này cần phải nhanh, cơ động, linh hoạt, tranh thủ thời gian đi đôi với nâng cao năng lực tổ chức, chỉ huy, với tính quả đoán, chịu trách nhiệm của người thủ trưởng đã được phân công, dám làm, dám chịu trách nhiệm, chứ không phải “cả làng” chịu trách nhiệm. Sau chiến dịch này, anh em cản bộ và bộ đội Tây Nguyên sẽ trưởng thành một bước lớn trong hoàn cảnh tác chiến mới.

Ta cần dành thêm thời giờ huấn luyện cho bộ đội cách xử trí cơ động, linh hoạt; bồi dưỡng năng lực tổ chức và chỉ huy chiến đấu khẩn trương, liên tục; huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ biết lái các loại xe của địch, biết dùng vô tuyến đlện thoại của ta, của địch; các binh chủng học sử dụng binh khí, kỹ thuật và phương tiện của địch, sắp tới phải chú trọng rất nhiều đến việc lấy trang bị của địch để đánh địch.

Chúng tôi nhất trí với các bước tuyên truyền nêu ra trong điện của đồng chí Võ Nguyên Giáp vì địch đang tìm cách giấu giếm, lừa bịp thông tin, ta có một số việc cần làm cho kịp và chu đáo. Giải phóng xong tỉnh Đắk Lắk, về cơ bản ta có thể đưa tin trên báo và đài phát thanh, khi đưa tin thì đưa luôn cả bản tuyên bố của Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Đắk Lắk, thành phần của Uỷ ban, kết quả chiến đấu và lời khai của bọn tù binh.

Hết: Chương 7, xem tiếp: Chương 8

vnthuquan.net

Đã đóng bình luận.